I. Nhận định hay về tác phẩm “Truyền kì mạn lục”
1. “Nguyễn Dữ, bằng tài năng kì lạ, đã thổi vào nhân vật sức sống lạ kì, mỗi nhân vật một số phận, một tư cách riêng với tư cách là một con người cá nhân chịu trách nhiệm trước việc mình làm. Thông qua những số phận cụ thể đó, Nguyễn Dữ đã khái quát cuộc sống ở trình độ bậc thầy về nghệ thuật mà khó có tác giả văn học trung đại nào ở Việt Nam đạt được. Qua số phận các nhân vật của mình, Nguyễn Dữ gửi tới đời sau thông điệp: Ở thời đại ông, không một người phụ nữ nào có hạnh phúc cả cho dù họ sống theo kiểu nào. Ngoan ngoãn, thủy chung, làm trọn phận người vợ, người mẹ hoặc phá phách,... thì cái chết cả về vật chất lẫn tinh thần đều là chung cục cho mọi kiếp đàn bà...”
(Theo Nguyễn Đăng Na, Đặc điểm văn học trung đại Việt Nam – Những vấn đề văn xuôi tự sự, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2001)
2. “Đứng trên lập trường Nho giáo song kết hợp nhuần nhuyễn với tư tưởng nhân nghĩa của Phật giáo, Đạo giáo, tư tưởng của nhân dân lao động, ông phê phán xã hội đương thời, đề cao hi vọng phục hồi những chế độ minh quân, nói lên khát vọng của những con người lao động nghèo khổ, qua đó thấy được hoài bão của cuộc đời ông”.
(Lê A, Lã Nhâm Thìn, Bùi Minh Toán, Để học tốt Ngữ văn 10, tập 2, Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội, 2011, trang 35)
3. “Truyền kì mạn lục nổi bật lên với nghệ thuật dựng truyện, xây dựng nhân vật. Nó vượt xa các truyện kí lịch sử vốn chỉ quan tâm tới tính cách và cuộc đời riêng tư của nhân vật và cũng vượt xa các truyện cổ dân gian vốn ít quan tâm tới đời sống nội tâm nhân vật. Truyền kì mạn lục kết hợp tài tình phương thức tự sự, trữ tình và cả kịch, giữa ngôn ngữ tác giả và ngôn ngữ nhân vật, giữa văn xuôi, văn biền ngẫu và thơ. Từ đó, tác phẩm này vừa có giá trị hiện thực và nhân đạo lớn, vừa làm nổi bật khát vọng của nhân dân, được dịch ra nhiều thứ tiếng và đươc đánh giá cao trong thể loại truyền kì của các nước đồng văn.”
(Lê A, Lã Nhâm Thìn, Bùi Minh Toán, Để học tốt Ngữ văn 10, tập 2, Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội, 2011, trang 35)
4. Theo “Tổng tập tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam”, thể loại truyền kì thể hiện tập trung trong các tác phẩm “Thánh Tông di thảo”, “Truyền kì mạn lục”, “Truyền kì tân phả”, “Cổ quái bốc sư truyện”, “Tân truyền kì lục”, “Truyện kí trích lục”, “Vân Cát thần nữ cổ lục”, “Vân nang tiểu sử”… và rải rác ở nhiều tác phẩm khác. Trong đó, tác phẩm “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ là đỉnh cao của truyền kì Việt Nam. Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định.“Truyền kì mạn lục được xem là quyển truyền kì đầu tiên trong văn học viết của ta và cũng là quyển hay nhất so với những quyển cùng loại được viết sau này…” (Lê Trí Viễn, 2002).
5. “Văn chương Truyền kỳ mạn lục là: “lời lẽ thanh tao, tốt đẹp, người bấy giờ lấy làm ngợi khen” (Lê Quý Đôn).
6. “Truyền kỳ mạn lục là “áng văn hay của bậc đại gia” (Phan Huy Chú).
7. “Xem lời văn thì Truyền kỳ mạn lục không vượt khỏi phên dậu của Tông Cát, nhưng có ý khuyên răn, có ý nêu quy củ khuôn phép, đối với việc giáo hóa ở đời, há có phải bổ khuyết nhỏ đâu” (Hà Thiện Hán)
II. Nhận định hay về tác phẩm “Chuyện chức phán sự đền Tản Viên”
- Về kết thúc có hậu của Tử Văn
Việc Tử Văn trở thành quan phán sự không phải thuần túy là một sự đền ơn trả nghĩa của Thổ thần mà chính là khát vọng của nhân dân mong mỏi luôn có người hiền đức, công minh, chính trực để làm người cầm cân, nảy mực, điều chỉnh cuộc đời, nhằm đảm bảo cho sự bình yên của dân lành khỏi sự ức nhiễu của các thế lực quân quyền và thần quyền. Đây cũng là kiểu kết thúc có hậu ở hiền gặp lành mà đạo lí dân gian người Việt đã tổng kết. Việc đức Thánh Tản chấp nhận lời đề nghị của Thổ thần cũng hàm ý ca ngợi vị Thánh nhân từ bảo trợ cho đất nước này. Lời khuyên của Thổ thần ở đây cũng rất có ý nghĩa: Người ta sống ở đời, xưa nay ai chẳng phải chết, miễn là chết đi còn được tiếng về sau mà hiểu rộng ra là nếu cuộc đời sống có ý nghĩa, sống trung thực, chân chính thì tiếng tăm mãi để về sau. Đây cũng là quan niệm sống, quan niệm làm người mang tính nhân văn cao cả của dân tộc.
(Lê A, Lã Nhâm Thìn, Bùi Minh Toán, Để học tốt Ngữ văn 10, tập 2, Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội, 2011, trang 40, 41)
- Về lời bàn của tác giả
Lời bàn này được dành cho giới kẻ sĩ, tức là những trí thức thời đó. Lời bàn không đao to búa lớn song thấm thía bởi được rút ra từ chính câu chuyện mà tác giả đã kể. Nói cách khác, tác giả đã dùng câu chuyện để đề cập tới một vấn đề nổi cộm lúc bấy giờ, đó là sự nhu nhược, yếu đuối, co mình giữ tiếng của những người có học thức. Họ nhận thức và hiểu được những bất công của thời đại song lại không có được sự dũng cảm như Tử Văn. Tác giả dành lời khen ngợi cho Tử Văn song đấy cũng là cách khuyến khích, kích thích, động viên lòng dũng cảm của kẻ sĩ đương thời: Ngô Tử Văn là một chàng áo vải. Vì cứng cỏi mà dám đốt cháy đền tà, chống lại yêu ma, làm một việc hơn cả thần và người. Bởi thế được nổi tiếng và được giữ chức vị ở Minh ti, thật là xứng đáng. Vậy kẻ sĩ, không nên kiêng sợ sự cứng cỏi.
Câu chuyện được dẫn dắt bằng một sự kiện điển hình (đốt đền), qua các tình huống với mức độ căng thẳng khác nhau với cách thức tác giả nhường lời cho nhân vật đã tạo sự hấp dẫn độc đáo, vừa có tính giáo dục cao, lại vừa thể hiện được quan điểm đánh giá phê phán thời đại đương thời. Điều đó cho thấy ngòi bút tài hoa của tác giả Nguyễn Dữ.
(Lê A, Lã Nhâm Thìn, Bùi Minh Toán, Để học tốt Ngữ văn 10, tập 2, Nhà xuất bản giáo dục, Hà Nội, 2011, trang 41)